e)
Tác giả và
hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ: Shin
Kokin-shuu (Tân Cổ
kim tập),
quyển 4, phần thơ mùa đông,
bài số 620.
Tác giả: Ôtomo
no Yakamochi (Đại Bạn Gia Trì, 718? –
785)
Yakamochi là con của quan Dainagon
tức tham nghị cấp cao tên Ôtomo
no Tabito (Đại Bạn, Lữ Nhân,
665-731), một nhà thơ nổi tiếng
phong lưu vào thời kỳ hậu bán
của Man.yô-shuu (Hitomaro là người
tương đương của thời tiền
bán). Ông được phong
Chuunagon tức tham nghị bậc trung, hàng
tam phẩm, sau về địa phương
Etchyuu làm quan đầu tỉnh. Ông là
một thanh niên công tử đa sầu
đa cảm, sinh trong một gia đình
quí tộc có nền nếp văn
chương, cuộc đời lắm bóng
hồng, làm nhiều thơ tặng qua đáp
lại với họ. Đây có lẽ
là một bài thơ tình mà
đối tượng là người
trong cung cấm.
Ông có nhiều thơ nhất
trong Man.yô-shuu (479 bài, kể cả
46 chôka). Thời kỳ ở Etchyuu là
lúc ông sáng tác sung sức nhất
(220 bài). Sau đó, trong những năm
còn lại, ông được chuyển
đi trấn nhậm khắp nơi từ nam
chí bắc và rốt cuộc, mất
ở miền bắc (vùng Mutsu). Ông
được biết như là người
cuối cùng có công chỉnh lý
tập thơ Man.yô-shuu.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài: Huyễn
tưởng yêu đương khi nhìn
cảnh trời đêm mùa đông
giá lạnh.
Quan tham nghị Ôtomo no Yakamochi
khi ngắm trời sao, nhìn thấy giá
băng đêm mùa đông đã
đóng trên bậc thang lên điện
trong cung cấm mà ông ví với
cầu trên dòng sông Ngân do đàn
chim ô thước đã bắc giúp
trong đêm thất tịch để đưa
Khiên Ngưu đến gặp Chức Nữ.
Ông biết đêm hầu tàn và
ước mơ gặp gỡ với người
ấy trở thành vô vọng.
Tuy nhiên nữ sĩ Shirasu Masako
lại hiểu là không có cái
tình cảm vô vọng (ý tại
ngôn ngoại) như nhiều người
thường nghĩ. Bà cho rằng chính
lúc đêm thật khuya và giá
lạnh như vậy như vậy, trong lòng
Yakamochi, niềm hy vọng gặp gỡ mới
bừng lên nồng nàn hơn bao giờ
hết.
Kasasagi
là
loài chim thuộc giống quạ, ức
trắng, đuôi dài và đen.
Trung Quốc gọi là ô thước.
Điển xuất từ sách Hoài Nam
Tử: “Ô thước trấn hà
thành kiều”. Còn cầu bắc
qua sông Ngân chỉ là cách ví
von (thủ pháp giả tá = mitate)
với bậc thang để đi vào
trong điện bởi vì hai chữ “cầu”
橋tức
kiều và “bậc thang” 階
tức
giai đều đọc là hashi.
Cung cấm như một cõi trời, cần
có một chiếc cầu bắc qua để
đến nơi. Tác giả đã
chuyển hình ảnh đàn quạ
đêm thất tịch Trung Quốc vào
giữa bầu trời đầy sao và
giá lạnh của mùa đông Nhật
Bản. Thủ pháp mitate
này được sử dụng thường
xuyên trong thơ waka
đời Heian.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Thước Kiều. 鵲 橋
Cung giai nhược Thước
Kiều, 宮 階 若 鵲 橋
Thu sương mãn địa
phiêu. 秋 霜 満 地 瓢
Mang mang bạch nhất
phiến, 茫 茫 白 一 片
Hàn dạ chính điều
điều. 寒 夜 正 迢 迢
|
|
Anh dịch:
Upon the bridge where ravens, aye,
Do love to pass where hoar-frost’s sheen.
When hoar-frost’s glittering film is seen;
I trow the break of the day is nigh.
(Dickins)
If the "Magpie Bridge" -
Bridge by flight of magpies spanned,-
White with frost I see: -
With a deep-laid frost made white:-
Late, I know, has grown the night.
(Mac Cauley)
|
|
Yakamochi có bài thơ nói về
mùa xuân rất nổi tiếng, có
chép lại trong Man.yô-shuu, nói
về chim sơn ca (hibari):
Uraura ni Tereru kasuga ni Hibari agari Kokoro
kanashi mo Hitorishi omoeba
(Ngày xuân ngập nắng lung linh,
Sáo tung trời biếc, riêng mình
lẻ loi)
phong vị mới mẻ, nối tiếp được
với dòng thơ cận đại.
|